Quy hoạch đô thị: Bài toán khó trong nhành xây dựng
Quy hoạch đô thị đang là bài toán khó ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, người đi sau cũng có cái lợi khi công nghệ đã giải quyết được những bài toán quy hoạch giao thông mà chỉ mươi năm trước dường như không thể.
Quy hoạch đô thị là bộ môn khoa học kỹ thuật, xã hội, nhân văn, là nghệ thuật về tổ chức không gian sống cho các đô thị và các khu vực đô thị. Nó là nghệ thuật sắp xếp tổ chức các không gian chức năng, khống chế hình thái kiến trúc trong đô thị trên cơ sở các điều tra, dự báo, tính toán sự phát triển, đặc điểm, vai trò, nhu cầu và nguồn lực của đô thị, nhằm cụ thể hóa chính sách phát triển, giảm thiểu các tác động có hại phát sinh trong quá trình đô thị hóa, tận dụng tối đa mọi nguồn lực, và hướng tới sự phát triển bền vững.
Quy hoạch khu đô thị Đông Đô Đại Phố
Theo PGS.TS.KTS Nguyễn Trọng Hòa, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển TP. HCM, nhìn nhận chung, quy hoạch và quản lý đô thị ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của quán tính bao cấp, chủ yếu dựa vào các nguyên tắc thiết kế tĩnh, thiếu linh hoạt theo hướng thị trường.
Trong khi đó, đô thị ngày càng khẳng định vai trò động lực then chốt trong nền kinh tế vơi khoảng 55% dân số sống tại các đô thị vào năm 2020.
Do đó, cần cải cách công nghệ và quy trình lập quy hoạch xây dựng đô thị theo hướng chuyển từ quy hoạch “tĩnh” sang quy hoạch “động”.
PGS.TS.KTS Nguyễn Quốc Thông, Phó chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam cũng cho rằng, việc mở rộng quá mức, quá nhanh không gian đô thị, mâu thuẫn giữa quy mô và chất lượng đô thị, giữa bảo tồn và phát triển hay phát triển để bảo tồn di sản đô thị… là những nút thắt đang đặt ra.
Chẳng hạn như gần đây có hiện tượng nhiều tỉnh cố gắng “phấn đấu” lên hạng thành phố trực thuộc Trung ương.
Hiện tượng này có nguy cơ như là hội chứng trong phát triển đô thị ở nước ta. Hay một số xu hướng khác như phát triển khu trung tâm hành chính đô thị các cấp hoặc trung tâm hành chính tập trung…
“Trong nhiều trường hợp, những quyết định hành chính này sẽ để lại những hệ lụy lãng phí tiền của, công sức và rất khó xử lý lại. Chẳng hạn như trường hợp Thành phố mới Bình Dương được xây dựng rất hoành tráng với kỳ vọng rất lớn, nhưng thiếu một số yếu tố hạ tầng mềm nên sau nhiều năm vẫn còn khá hoang vắng”, một chuyên gia quy hoạch cho biết.
Rõ ràng, ở đây, vấn đề nghiên cứu, lựa chọn lý thuyết và mô hình phát triển đô thị thích hợp với điều kiện của Việt Nam có ý nghĩa tiên quyết.
Bên cạnh đó, cần xây dựng và cập nhật thường xuyên ngân hàng dữ liệu kinh tế - xã hội, thị trường bất động sản… phục vụ công tác lập quy hoạch đô thị, đồng thời để đồ án quy hoạch là hồ sơ khả dĩ nhằm bổ trợ và dẫn dắt quá trình phát triển theo định hướng thiết kế.
Theo giới chuyên gia, thực trạng quy hoạch đô thị tại Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại đáng bàn, đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM. Khi áp lực giao thông “đè nặng” lên hạ tầng, gần đây, vấn đề hạn chế xây cao ốc trong các quận trung tâm lại được đặt ra.
Song song với việc không tiếp tục phát triển chung cư, căn hộ nhà cao tầng khu vực trung tâm, một số ý kiến đề nghị phát triển khu đô thị vệ tinh để điều phối, bố trí lại dân cư, lực lượng lao động nhằm giải tỏa cho các thành phố trước những áp lực giải quyết việc làm, nhà ở, an sinh xã hội, trật tự an toàn giao thông.
Tuy nhiên, cũng có những quan điểm trái chiều cho rằng, “đô thị nén” với các cao ốc là câu chuyện phổ biến.
Vấn đề lớn nhất là triển khai dự án nhà ở phải đi đối với phát triển hạ tầng. Bên cạnh đó, câu chuyện dự án chậm tiến độ cũng là vấn đề đau đầu đối với quy hoạch đô thị. Đơn cử tại Hà Nội, hiện nay có đến 383 dự án chậm triển khai trên địa bàn.
Theo quan điểm của Bộ Xây dựng, nguyên nhân khiến xảy ra tình trạng dự án “treo” là do việc lập quy hoạch còn chưa tổng hợp đầy đủ và xử lý tốt các thông tin hiện trạng và thông tin dự báo về tình hình kinh tế - xã hội và các yếu tố đầu vào khác dẫn tới mục tiêu, tầm nhìn, một số vấn đề chiến lược trong quy hoạch chưa chính xác.
Đồng thời, quy hoạch thiếu tính khả thi do chưa hoặc không xác định các yếu tố, điều kiện thực hiện, nhất là về nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội (đường giao thông, cấp thoát nước, cây xanh, công viên, trường học…) và đền bù giải phóng mặt bằng.
Việc tổ chức quản lý và thực hiện quy hoạch sau khi công bố chưa được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ theo quy định.
Một số nhà đầu tư do không quan tâm hoặc không đủ năng lực tài chính nên mới chỉ chú ý đầu tư xây dựng các công trình nhà ở, thương mại, dịch vụ mà chưa tập trung xây dựng các công trình hạ tầng trong khu vực dự án và công trình hạ tầng kết nối dự án với các khu vực lân cận.
Nguồn sưu tầm
Không có nhận xét nào